Giấy dó làng Phong Phú dai và mỏng, chất lượng tuyệt vời, được nhiều người tin dùng bao đời nay. Chính vì có lịch sử lâu đời, lại giữ được chất lượng ổn định nên người dân làng Phong Phú vẫn tiếp tục gìn giữ và tiếp nối nghề truyền thống mà ông cha để lại.
Xem thêm: Nghề làm giấy dó truyền thống của dân tộc Việt

![]() |
Những tờ giấy dó được căng và phơi dưới nắng |
Trời nắng chói chang, bà Loan (51 tuổi) thoăn thoắt phơi từng tờ giấy dó trên bãi đất trống trước nhà. Vừa làm, bà cho biết: “Lúc tôi lập gia đình được bố mẹ cho 5 khuôn seo làm của hồi môn. Từ những khuôn ấy, hai vợ chồng tôi tiếp tục nối nghiệp ông bà, tổ tiên. Đến nay cũng hơn 33 năm theo nghiệp này. Vất vả nhưng chủ động thời gian, tận dụng được nhân công nên gia đình tôi vẫn sống tốt với nghề”.
Nghề làm giấy dó là nghề thuận theo tự nhiên, chỉ những hôm trời nắng mới làm được vì giấy dó phải phơi ngay. Mỗi ngày vợ chồng bà túc tắc làm cũng đổ được khoảng 100 tờ giấy dó. Nghề làm giấy dó khá vất vả, phải làm thủ công từ đầu đến cuối, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức, vậy nên phần lớn những người theo nghề trong làng đều đã có tuổi. Thanh niên chỉ phụ giúp khi có thời gian rảnh, nhưng sau này khi về già, rất có thể họ sẽ lại kế nghiệp, như những bậc chú bác tần tảo trong làng.
![]() |
Ông Hà đang cạo bỏ lớp đen bên ngoài vỏ cây niệt, để có tờ giấy dó trắng sáng
|
Sản phẩm giấy dó của làng Phong Phú có thể để đến trăm năm cũng không bị mục nát nhờ sợi dó có khả năng hút và nhả ẩm tốt.
Bí kíp làm nên tờ giấy dó nổi tiếng chính là cách giữ lửa. Khi đun cây niệt với nước vôi cần phải giữ nhiệt độ thật cao, có thế thì giấy mới trắng.

![]() |
Cây niệt đun với nước vôi trong 2 ngày liên tục để có sự mềm nhất định |
“Tất cả các công đoạn đều phải làm thủ công nên đòi hỏi sự cần mẫn chịu khó của người làm. Đã từng có người thử bỏ vỏ cây niệt vào trong máy để nghiền thay cho công đoạn đập bằng đá hoặc gỗ, nhưng kết quả không như mong muốn. Tờ giấy khi thành phẩm bị bở, nát không thể sử dụng được”, ông Hà (57 tuổi) cho biết. Cũng vì lý do đó mà trải qua nhiều thế hệ, người dân nơi đây vẫn chỉ sử dụng phương thức thủ công để làm nghề.
Ông Trị (50 tuổi) cũng là một người có thâm niên trong nghề làm giấy dó. Gia đình ông chưa bao giờ xem nhẹ nghề này, bởi đây là nghề đã nuôi sống cả gia đình. Đất Nghi Phong cát trắng bạc màu, nhà làm 10 sào ruộng, nhưng năng suất thu hoạch kém, làm nông nghiệp chẳng ăn thua. Ông Trị luôn chịu khó làm thêm nghề phụ để kiếm tiền trang trải cuộc sống. Một ngày của ông thường bắt đầu từ lúc 4h sáng, chuẩn bị nguyên liệu cho việc tráng hàng trăm khuôn giấy dó đem phơi cẩn thận, rồi mới đi làm đồng… Trưa về, ông cùng vợ con tranh thủ bóc tờ giấy dó xuống khỏi khuôn trước khi tiếp tục đổ lớp khác. 
![]() |
Bà Loan đang rửa khuôn để chuẩn bị cho việc tráng lên khuôn để làm giấy dó
|
Nghề này không làm giàu được, nhưng cũng có thêm thu nhập để trang trải cuộc sống. Với gần 50 khuôn, mỗi ngày gia đình ông Trị đổ được từ 2-3 lần, có 100-150 tờ giấy dó. Trừ chi phí, vợ chồng ông cũng có khoản tiền kha khá sinh hoạt và lo hai đứa con ăn học đàng hoàng. Không những thế, nhiều hộ còn nhờ vỏ cây niệt để phát triển kinh tế, đưa con cái vào học hành tử tế.
Thời trước, sản phẩm giấy dó được người làm tự đi tìm mối tiêu thụ. Nhưng nhiều năm trở lại đây đều được các thương lái đến tận nhà thu mua. Tùy vào mục đích sử dụng của khách hàng mà người làm điều tiết để tạo ra tờ giấy dó mỏng hay dày tùy loại. 
![]() |
Giấy dó thành phẩm |
Năm 2007, làng nghề giấy dó Phong Phú, xã Nghi Phong được công nhận làng nghề cấp tỉnh. Thời điểm đó có trên 60% hộ dân trong làng theo nghề thủ công trên. Tuy nhiên, trong xu thế hiện đại hoá, hiện nay các loại giấy công nghiệp ra đời nên thị trường giấy dó cũng khó cạnh tranh.
Hiện nay, một số hộ đã chuyển đổi sang nghề khác nhưng vẫn còn nhiều gia đình ngày ngày tráng giấy dó để bán. Ông Nguyễn Đình Lý, Phó chủ tịch UBND xã Nghi Phong cho biết, hiện nay trong xã có khoảng 30 hộ làm nghề giấy dó. Thời điểm hiện tại, dù nghề đã giảm sức nóng, nhưng không thể phủ nhận đây là nghề tạo thu nhập cho nhiều hộ gia đình. Hằng năm, chính quyền luôn trực tiếp xuống thăm hỏi, động viên bà con gìn giữ nghề truyền thống của làng quê.
Trải qua hàng trăm năm, giấy dó Phong Phú vẫn được người sử dụng mua về phục vụ thị trường làm quạt giấy, quấn hương trầm, dán bụng cá biển, làm vàng mã. Nhiều gia đình làm nghề nướng cá đã thử sử dụng loại giấy khác để dán bụng cá, nhưng đều quay trở lại sử dụng giấy dó truyền thống nhờ những đặc tính dai, mỏng.
Nếu hứng thú và muốn trải nghiệm làm giấy dó ngay trong nội đô Hà Nội thì không gian văn hoá Hồ Văn - Văn Miếu chính là nơi bạn nên tìm đến. Tại đây, cảnh làng quê Việt Nam xưa được tái hiện chân thực và sinh động, người thăm qua sẽ được tham gia trải nghiệm làm giấy dó, vẽ tranh dân gian, và rất nhiều các nghề truyền thống khác nữa.
![]() |
Các bạn nhỏ tham gia trải nghiệm làm giấy dó tại Hồ Văn - Văn Miếu
Chi tiết về Hồ Văn - Văn Miếu xem tại đây
|
(Tổng hợp)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét